VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

26/08/2010

Những mảng trắng của lịch sử

Filed under: LICH SU — vương-trí-đăng @ 04:47

Thấy cần đọc Lịch sử triều Mạc của Đinh Khắc Thuần (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2001) vì hai lý do:
-Một, nó là luận văn tiến sĩ ở Pháp, chứ không phải được công nhận trong nước;

-hai, nghe nói nó rất ca ngợi nhà Mạc chứ không phải lên án như phần lớn sách giáo khoa về lịch sử từ thời tôi học cấp hai 40 năm trước cho tới hôm nay. (more…)

06/08/2009

Đi tìm một hướng nghĩ về sử Việt nam

Filed under: LICH SU — vương-trí-đăng @ 01:35

Mấy năm nay ở ta có hiện tượng điểm sử của các học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách thảm hại. Và nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận mang tai, bất đắc dĩ phải học sử, lúc học lên có không biết thi vào trường nào khác mới chịu thi vào sử.
Tại sao như vậy ? Tại sao học sinh kém sử?
Nhiều người nói là các giáo viên chúng ta không biết dạy। Có người dám viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan,khó hiểu lặp đi lặp lại।Họ tính chuyện tăng tính hấp dẫn của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh,bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật thật xịn ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.
Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch sử sao lại nhàm chán cho được?!
Việc học sinh và người dân ở ta ngán sử,theo tôi có nhiều nguyên nhân khác nhau.
Các bài sử được giảng khô cứng tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế.Chuyên ngày xưa được kể lại mà cứ như chuyện ngày .Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu vắng. Cũng như thiếu hẳn cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần gũi.Thế thì ai mà thích được ?
Vỏ đã vậy, còn ruột thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người học cảm tưởng ở trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà không một đầu óc nào tưởng tượng nổi.Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến, lý giải.
Cái hồn này của sử ở ta không có।Ngược lại,người viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ,lịch sử đã chưng cất phục vụ cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn điệu.Thí dụ nói đến nhà Trần đánh quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi …Ở trung học cũng vậy,mà lên đại học cũng vậy.Còn chuyện những người cầm quân và làm việc nước lúc ấy quan hệ với nhau ra sao,suy nghĩ cụ thể như thế nào trong hành động,có những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng – tương tự như hai mẩu chuyện tôi vừa đọc được – thì không bao giờ cho học sinh biết và gợi cho chúng cần biết.
Sau khi học qua chục năm ở trường phổ thông đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui đùa thường mang những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt : nào “có áp bức có đấu tranh “, nào “tinh thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh “.
Khi cảm thấy không được tôn trọng,không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến thức mà vẫn buộc phải học,người ta không có cách phản ứng nào khác.
Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống con người trong quá khứ,làm sao gọi là sử được ?

Ghi chép của người yêu sử
Xu thế của con người là muốn hiểu, muốn biết quá khứ của mình. Con người tìm thấy sự hấp dẫn của Sử khi từ quá khứ nhận ra những mối liên hệ với ngày hôm nay, thấy ngày hôm nay là tiếp nối của ngày hôm qua. Tôi cũng vậy, tôi thích sử bởi tôi thấy các vấn đề xảy ra trong trong lịch sử dân tộc đang đổ bóng vào cuộc sống hàng ngày tôi đang sống.

Một lần đọc Hà văn Tấn tôi thấy ông trích dẫn một câu khá hay của nhà triết học B. Russel,“ đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại “
Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339 ),thường được biết tới như một trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.Có điều ông cũng rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng còn bắt chước người Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón kiểu phương bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân biệt.Nghe thì có vẻ rất nghiêm !Có biết đâu,trước đó ông đã sai người nhà mua sẵn nón về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được một “chiến công tưng bừng” trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong các bộ sử hiện đại, kể cả Việt nam sử lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ra đọc. Đến khi tìm lại Đại việt sử ký toàn thư thấy có thêm một chi tiết có sức tố cáo mạnh hơn. Có lần người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “ Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ ? ”.
Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.
Về tham nhũng, Đại việt sử ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân Tôn ( sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê Thánh Tôn ), tức khi vương triều thịnh trị, đã có hiện tượng “ trên thì tể tướng, dưới thì trăm quan, hối lộ bừa bãi ”.
Về những dễ dãi trong việc ban quan tước, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi: “ Triều Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế ! Muốn cho khỏi loạn,có thể được không ?”.

Chống tham nhũng đang là vấn đề “nóng”. Tôi đọc sử và phát hiện ra trong lịch sử các triều đình xưa đầy rẫy chuyện tham nhũng. Từ đời Lê Thái Tổ trở đi đã có tham nhũng rồi. Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số ra đầu 2008, có bài nói về ngoại thương thời chúa Trịnh. Hóa ra bản chất của vấn đề y như bây giờ. Các chúa chỉ tính tới ngoại thương khi yếu quá và muốn lợi dụng khả năng quân sự của nước ngoài để đánh nhau, chứ không phải vì muốn buôn bán gì cả. Lúc thì cấm, lúc thì cho phép, lung tung tuỳ tiện. Những người làm ngoại thương vì xã hội thì ít mà vì chính mình thì nhiều.Các quan chức nghề này thường lợi dụng việc xuống tàu kiểm tra để xin xỏ. Đọc lại tự nhiên thấy cảm ơn các nhà viết sử thời xưa và muốn đi tìm để đọc tiếp.

Quan niệm về sử của chúng ta có vấn đề
Trong số ý kiến ngắn đăng ở Talawas cuối 2007 , có lá thư của Trần Văn Tích, thống kê số sách vở mất mát sau cuộc kháng chiến chống nhà Minh
Đoạn văn có một chi tiết mà tôi không tìm thấy ở đâu : Khi đưa ra con số này trong Việt nam sử lược, cả Trần Trọng Kim cũng chỉ nói người Minh mang về Trung quốc mà quên đi rằng chính là người nông dân Việt khi vào các kinh thành cũng đã đốt rất nhiều sách. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết thế
Chi tiết này gợi cho tôi mấy ý nghĩ
1/ Hóa ra không phải đến các nhà viết sử hiện thời mà cả những Trần Trọng Kim Đào Duy Anh cũng có lối viết đổ cả những kém cỏi trong sự phát triển của xã hội Việt Nam cho người nước ngoài.
2/ Chúng ta có một lối nghĩ về sử khá quan liêu, tức là bằng lòng với những huyền thoại। Chẳng hạn khi nghiên cứu về sử thời giặc Minh ai cũng chỉ nghĩ tới công thức băt dân ta lên rừng tìm thú quý, xuống biển mò ngọc châu mà Thí dụ mà TVT nêu ở trên giúp chúng ta giải huyền thoại này , và chợt nhận ra bao công việc phải làm
Khi nói về sach vở , người mình chỉ nghĩ đến văn thơ,tính chung trong số người liệt vào loại danh nhân đất nước,cứ một trăm người thì phải đến tám chín chục phần trăm . Trong khi đó, đọc các tài liệu nghiên cứu về Trung Hoa chẳng hạn, thấy trong độ một trăm danh nhân của họ thì số nhà văn nhà thơ chỉ độ 20%
Học thuật ở ta không được chú ý đúng mức.Chúng ta chỉ thích nói chuyện tình cảm , mà không để ý tới sự nghĩ
Chúng ta nhìn về quá khứ giống như một khối mờ mờ. Các giai đoạn lịch sử mới được gọi tên nhiều hơn là được nhận thức. Con người VN các thời đại trước đây sống ra làm sao, đi lại, ăn uống, đọc sách như thế nào? Các đô thị hình thành ra làm sao? Các sứ thần mang về những cái gì từ Trung Quốc? Các thuyền buôn nước ngoài đến VN ra làm sao? Những câu hỏi đó chỉ mới được trả lời sơ sài và nhiều khi là chưa được ai đề cập tới.

. Một trong những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên đến cả triều đình.

Tôi bắt đầu chú ý tới sử khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thực tế đời sống ở VN hôm nay.
Càng đọc lại sử, tôi càng thấy mình có lỗi. Hóa ra nước mình có mấy bộ sử quý như Đại Việt sử ký toàn thư, như Đại nam thực lục. Thế mà mang danh là những người cầm bút mấy ai đã đọc những bộ sử đó.
Nhưng chúng ta chưa có cái Sử đó. Thường xuyên chỉ có những bức tranh chung chung được đưa ra, chúng hết sức xa lạ với mối quan tâm hàng ngày của con người đương thời.

Một trình độ cổ lỗ
Đi sâu vào khoa nghiên cứu lịch sử thấy có quá nhiều chuyện và lý do sâu xa khiến không ai muốn dạy sử, không ai muốn học sử phải tìm ở đấy.
Chúng ta chỉ nhìn quá khứ với con mắt vụ lợi. Cái gì có lợi cho mình, ta nhắc lại. Cái gì có vẻ như không có lợi tức thì, lờ đi. Đó là một thứ chủ nghĩa thực dụng sát mặt đất. Thế thì làm sao có Sử được ? Không ai muốn nhận nhưng rõ ràng chúng ta không nghiêm túc trong nhìn nhận quá khứ. Lại rất quan liêu nữa. May lắm thì trong sử chúng ta đang đọc và dạy nhau hôm nay chỉ có các sự kiện chính trị xã hội. Trong khi đó Trung Quốc người ta có lịch sử ăn mày, lịch sử thương nhân, lịch sử trang phục…Ở Đức, người ta nghiên cứu lại cả những đám cưới thời Hitler.Cách hiểu về quá khứ của ta quá cổ lỗ và đơn điệu. Mình sắp làm phim về Lý Công Uẩn, tôi ngờ lắm. Chúng ta có biết gì về thời gian đó đâu . Cung điện thời đó ra sao ? thành quách thế nào? Con người ăn mặc nói năng ra sao ? Không ai biết. Gần đây nghe nói người ta còn định sang Trung Quốc để thuê ngựa về quay và ông Dương Trung Quốc đã phải nói ngay là dân ta xưa đâu có sử dụng ngựa nhiều. Từ đây mà suy ra, thì khi đối diện với cái cuộc sống hiện ra trong phim, ai còn tin được điều gì.
Hoặc như lịch sử hiện đại. Hoạt động sưu tầm và quản lý sử liệu quá kém, các kho lưu trữ lại không mở ra cho các nhà làm sử tham khảo. Các tài liệu phụ trợ như hồi ký thư từ, không được khai thác, hoặc trong không ít trường hợp là của giả. Nói chung, chúng ta coi mảng lịch sử đó như một cái gì đã thành, chứ không đặt vấn đề nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện lại. Nói lịch sử chết cứng trong các công thức cũ là với nghĩa vậy, và việc không có công trình nghiên cứu lịch sử nào ra hồn là chuyện đương nhiên
Ngay khối lượng thuần túy sách vở về sử ở ta đã không đạt yêu cầu Ở nước ngoài, từng triều đại từng giai đoạn người ta nghiên cứu nát ra. Còn mình mỗi thứ có được vài ba quyển, lại trùng hợp nhau chép lẫn của nhau. Gần đây có một thực tế là người nước ngoài viết về Sử Việt Nam tốt hơn người Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tiếng Hán không biết, tiếng Pháp, tiếng Anh… không biết. Kể cả một số thầy đầu ngành vài chục năm nay cũng chỉ mài một số hiểu biết cũ ra viết lại. Các lớp trò sau mỗi ngày kém đi một chút. Hỏi đến học sinh phổ thông, còn được cái gì?!

Nhận thức về quá khứ vốn là nhu cầu chính đáng của con người. Làm như hiện nay tức là chúng ta tước bỏ nhu cầu đó và hướng họ sang những chuyện vô bổ, họ chịu mãi sao đươc !

14/07/2009

Câu chuyện nhân tài trong lịch sử

Filed under: LICH SU — vương-trí-đăng @ 03:45


Quan niệm về tài năng cũng là một dạng di sản mà chúng ta thừa hưởng từ quá khứ .

Không ít nhà văn nhà thơ Việt Nam thời trung đại nhắc đến tên thì thiên hạ bảo rằng có nghe có biết , mà hỏi viết gì thì chịu , không ai nhớ . Tức họ không có tác phẩm cụ thể (đây là nói những tác phẩm dày dặn ,có chất lượng đáng kể , được truyền tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả của các nhà văn học sử ) .
Bởi vậy mới có tình trạng trong một cuốn từ điển chuyên về văn học Việt Nam , người ta đếm thấy có 276 mục dành cho tác giả ,trong khi chỉ có 132 mục dành cho tác phẩm . Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng , mỗi thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm ; riêng thế kỷ XIX khá hơn , có tới 68 tác phẩm được ghi vào từ điển , nhưng số tác giả cũng lớn hơn , tới 78 người
Nhân cuộc trao đổi về đào tạo nhân tài đang triển khai trên các báo hiện nay , tôi nhớ lại con số thống kê trên đây . Đại khái tinh thần của nó cũng giống như câu chuyện về những tấm bia ghi tên những ông tiến sĩ : không ai biết các ông đã làm nên trò trống gì , chỉ thấy có nói đến chức tước và sự đỗ đạt của mỗi ông , để rồi có bia ở Văn Miếu .
Xét gộp cả lại có thể rút ra ít nhất hai kết luận : một là nhiều nhân vật từng đã được coi là nhân tài ở Việt Nam giống như những cây không có quả , hoặc có thể là sinh thời cũng có quả đấy nhưng toàn quả lép quả hỏng , không thể tồn tại cùng thời gian ; hai là sự công nhận tài năng ở ta có khi đúng , nhưng có khi hàm hồ , tuỳ tiện , tức là xã hội tạo nên nhiều huyền thoại , và có một số người tồn tại trong lịch sử là nhờ vào những huyền thoại mà họ góp phần tạo ra chứ không dựa trên hiệu quả cụ thể .
Đây có phải là một tình trạng phổ biến của việc đào tạo nhân tài trong quá khứ ? Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định , thì nó vẫn là điều mà chúng ta rất nên biết , trước khi có những cuộc ra quân rầm rộ để bàn bạc , cũng như chuẩn bị chi ra những món tiền lớn hàng ngàn tỉ đồng cho một trong những đầu việc được xem là trọng đại trong thời gian tới .
Theo tôi , có một vài vấn đề mà trong chiến lược đào tạo tài năng , chúng ta phải trả lời cho dứt khoát .
Về phân loaị các tài năng : Có phải trước đây , lịch sử ở ta thường chỉ biết tới các nhân tài trên các lĩnh vực quân sự chính trị hoặc văn hoá ( nói cụ thể là những người viết văn làm thơ ) , còn nhân tài trên các lĩnh vực kinh tế khoa học , tức những người có sáng tạo , nhằm đổi mới tình trạng làm ăn sinh sống của dân thường và giúp cho xã hội ngày một phát triển , thì chỉ có ít , và dừng lại ở một trình độ rất đơn sơ ? Có phải vì thế mà các tài năng đó chỉ có tác động tới tình hình trong nước chứ chưa bao giờ có thể gọi là những đóng góp của Việt Nam vào kho tàng tri thức của nhân loại ?
Về quy mô của tài năng : Có phải nhìn chung các tài năng ở ta trước đây thường có một sinh mệnh non yểu , chỉ chói lên được trong một vài sáng tạo vào lúc trẻ , còn sau đó lại rơi ngay vào tình trạng trì trệ ? Và việc chăm sóc tài năng ở ta như vậy phải nói không có kinh nghiệm , chỉ đẻ giỏi , mà nuôi dạy thì không biết cách ?
Những câu hỏi tương tự nên được đặt ra , chỉ cần nghiêm túc và không lẩn tránh sự thực là có câu trả lời , từ đó đi tới quyết sách đúng đắn . Cái cần nhất của các quyết sách về nhân tài lúc này là không bốc đồng vội vã , không chạy theo thành tích hão huyền , để rồi , nói như các cụ ngày xưa , đưa hàng đống tiền mang đổ xuống sông xuống bể .
Nhân đây thử trở lại với vài tư liệu lịch sử , liên quan tới chất lượng tài năng ở ta cũng như cách sử dụng nhân tài . Đây là nhận xét của Trần Trọng Kim trong Việt nam sử lược (1925 ):
“Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu . Đại khái thì trí tuệ minh mẫn , học chóng hiểu , khéo chân tay , nhiều người sáng dạ , nhớ lâu lại có tính hiếu học , trọng sự học thức , quý sự lễ phép , mến điều đạo đức . …Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt , cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế . Tâm địa nông nổi , hay làm liều , không kiên nhẫn , hay khoe khoang và ưa trang hoàng bề ngoài , hiếu danh vọng , thích chơi bời, mê cờ bạc . Hay tin ma tin quỷ , sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả . Kiêu ngạo và hay nói khoác (.. .)
Đào Duy Anh trong Việt nam văn hoá sử cương (1938) thì viết :
“Về tính chất tinh thần , thì Việt Nam đại khái thông minh , nhưng nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường . Sức ký ức thì phát đạt lắm , mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học , giàu trực giác hơn luận lý . Phần nhiều có tính ham học , song thích văn chương phù hoa hơn là thực học , thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. “
Còn đây là chuyện sử dụng nhân tài . Bộ sử đồ sộ nhất của chúng ta trong thời trung đại là Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi lại câu chuyện một vị vua trước khi giết một công thần , nói với người công thần đó như sau : “ Không cần nói nhiều . Mày có tài trội hơn ta thì không phải là người mà ta dùng được . “ (2)
Trong sử sách cũ không thiếu những mẩu chuyện cắt nghĩa tại sao các tài năng không nẩy nòi lên được . Lịch sử có thể dạy khôn chúng ta rất nhiều . ấy là không kể , trước khi tính các việc lớn , nếu có dịp nhìn ra nước ngoài , để rồi so sánh đối chiếu , thì những bài học lịch sử lại càng sáng rõ . Tôi cho rằng cả việc này nữa cũng cần làm , mỗi khi bàn về việc đào tạo nhân tài .

__________
(1) Cuốn sách nói tới ở đây là Từ điển văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường . Con số thống kê là do NguyễnVăn Tuấn nêu ra trong một bài viết in trên Tạp chí Văn hoá nghệ thuật , số ra tháng 3-2003 .
(2) Sách đã dẫn , bản của NXB Giáo dục , 1999 ; hai tập , tập II


26/08/2008

Không phải là lịch sử

Filed under: LICH SU — vương-trí-đăng @ 16:24

Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống con người trong quá khứ, làm sao gọi là sử được…

Trần Khánh Dư (không rõ năm sinh, mất năm 1339), thường được biết tới như một trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng còn bắt chước người Trung Quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón kiểu phương Bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân biệt. Nghe thì có vẻ rất nghiêm! Có biết đâu, trước đó ông đã sai người nhà mua sẵn nón về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được một “chiến công tưng bừng” trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.

Câu chuyện trên không thấy ghi trong các bộ sử hiện đại, kể cả Việt Nam sử lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ra đọc. Đến khi tìm lại Đại Việt sử ký toàn thư thấy có thêm một chi tiết có sức tố cáo mạnh hơn. Có lần người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ?”.

Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hóa ra nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.

Về tham nhũng, Đại Việt sử ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân Tôn (sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê Thánh Tôn), tức khi vương triều thịnh trị, đã có hiện tượng “trên thì tể tướng, dưới thì trăm quan, hối lộ bừa bãi”.

Về những dễ dãi trong việc ban quan tước, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi: “Triều Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều trao cho tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế! Muốn cho khỏi loạn, có thể được không?”.

Theo nhà triết học Bertrand Russel, “đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại” (trích lại từ Giáo sư Hà Văn Tấn). Nghe ra có vẻ đau đớn chua xót, nhưng thực ra đó mới là động cơ đủ sức thúc đẩy người ta “đi tìm thời gian đã mất”.

Mấy năm nay ở ta có hiện tượng điểm sử của học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách thảm hại. Và nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận mang tai, bất đắc dĩ phải học sử, lúc học lên, có không biết thi vào trường nào khác mới chịu thi vào sử.

Tại sao như vậy? Nhiều người nói là các giáo viên chúng ta không biết dạy. Có người dám viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan, khó hiểu, lặp đi lặp lại. Họ tính chuyện tăng tính hấp dẫn của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh, bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật thật xịn ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.

Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch sử sao lại nhàm chán cho được?!

Việc học sinh và người dân ở ta ngán sử, theo tôi, có nhiều nguyên nhân khác nhau.

Các bài sử được giảng khô cứng, tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế. Chuyện ngày xưa được kể lại mà cứ như chuyện ngày nay. Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu vắng. Cũng như thiếu hẳn cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần gũi. Thế thì ai mà thích được?

Vỏ đã vậy, còn ruột thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người học cảm tưởng ở trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà không một đầu óc nào tưởng tượng nổi. Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến, lý giải.

Cái hồn này của sử ở ta không có. Ngược lại, người viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ, lịch sử đã chưng cất phục vụ cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn điệu. Thí dụ nói đến nhà Trần đánh quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi… Ở trung học cũng vậy, mà lên đại học cũng vậy. Còn chuyện những người cầm quân và làm việc nước lúc ấy quan hệ với nhau ra sao, suy nghĩ cụ thể như thế nào trong hành động , có những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng – tương tự như hai mẩu chuyện tôi vừa đọc được – thì không bao giờ cho học sinh biết và gợi cho chúng cần biết.

Sau khi học qua chục năm ở trường phổ thông, đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui đùa thường mang những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt: nào “có áp bức có đấu tranh”, nào “tinh thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh”.

Khi cảm thấy không được tôn trọng, không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến thức mà vẫn buộc phải học,người ta không có cách phản ứng nào khác.

Muối mà không mặn còn gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống con người trong quá khứ, làm sao gọi là sử được?

Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Tạo một blog miễn phí với WordPress.com.