VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

10/11/2010

Tìm nghĩa khái niệm hiện đại

Filed under: Khác,NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 02:25
Những cách hiểu khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau
Hàng ngày chúng ta vẫn thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại.  Trên báo chí thời sự, trong các văn kiện chính trị cụm từ “quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá” hoặc “sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung xác định.  Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên thế giới, và hiện đại hoá là đưa sự phát triển của xã hội ta lên một bước làm cho chúng ta không thua kém những nước đó.
Đây chính là nghĩa thông thường nhất của hai chữ hiện đại. (more…)

31/10/2010

Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trong sự hình thành tiểu thuyết Việt Nam trước 1930

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 08:38

Thời trung đại, văn học Việt Nam chưa có tiểu thuyết; sự hình thành tiểu thuyết theo nghĩa đúng đắn của khái niệm ấy chủ yếu diễn ra trong thế kỷ XX với những ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa phương Tây, tiểu thuyết phương Tây. — Đấy là nhận thức thường thấy ở nhiều người. Muốn rõ thêm người ta còn nói rằng ảnh hưởng mới mẻ này là khía cạnh làm nên sự khác biệt giữa văn học Việt Nam thời trung đại và thời hiện đại.
(more…)

24/06/2010

Nơi gặp gỡ của báo chí và văn học

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 08:19

Nơi gặp gỡ của báo chí và văn học

Sự phát triển của thể phóng sự trong văn học nửa đầu thế kỷ XX

Mặc dù trong nền văn xuôi cổ điển Việt Nam, từ lâu người ta đã biết tới những cuốn sách “ghi chép sự thực” nổi tiếng (chẳng hạn Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục, Thượng kinh ký sự…) song trên nét lớn phải đến thế kỷ XX, trong nền văn học Việt Nam hiện đại, thì các thể văn thuộc loại ký như bút ký, phóng sự, tuỳ bút, du ký…  mới trở nên những thể tài độc lập và có sự phát triển liên tục. (more…)

Báo chí — nơi lưu giữ những thể nghiệm của văn học

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 08:17

Báo chí — nơi lưu giữ những thể nghiệm của văn học

Từ  những đoạn văn bị bỏ  quên của Xuân Diệu…
Là một hồn thơ tinh tế, biết ghi lại từng chút phân vân thấp thoáng trong lòng người, song Xuân Diệu cũng là một người lao động miệt mài, cả đời lo “mài sắt nên kim”. Có một nguyên tắc chi phối cách sống làm việc của Xuân Diệu, nhiều người quen ông đã được chứng kiến – ấy là: đã viết ra cái gì, ông đều mong thu góp nó lại để từ những bài báo nhỏ gom thành sách. (more…)

27/12/2009

Trở lại với di sản , thành tựu và hạn chế

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 14:27

Bên lề một thế kỷ văn học

VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP MỚI
Ông cha ta ngày xưa không thiếu tinh thần tự hào về sự sáng tạo văn học và cũng đã bắt đầu làm các loại sách có tính chất sưu tầm nghiên cứu để hệ thống hoá di sản của tiền nhân ,tuy nhiên ở đây có hai điều phải gọi là hạn chế :

1) số lượng những bộ sách này thực quá ít – theo Trần Văn Giáp sơ bộ thống kê trong cuốn Tìm hiểu kho sách Hán Nôm t .II , thì số Hợp tuyển thơ văn này chỉ có 13 cuốn cộng thêm 9 cuốn sưu tầm văn học dân gian trong khi đó sách Thi văn tập tức là sáng tác của từng tác giả riêng biệt lên tới 129 cuốn (more…)

04/10/2009

Tìm hiểu thực trạng nghiên cứu văn hóa VIỆT NAM hiện thời và một đề xuất cụ thể

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 02:12

Xã hội Việt Nam đang trong một quá trình phát triển tự phát mà thiếu vai trò hướng dẫn của trí tuệ, của nghiên cứu khoa học.  

    Quá trình hiện đại hóa đã được khởi động từ đầu thế kỷ XX, nhưng lúc đó đất nước đang còn là một xứ thuộc địa, cộng đồng chưa trải qua một cuộc tự nhận thức thực sự mà mọi dân tộc bước vào thời hiện đại phải trải qua ( so với Trung quốc, chúng ta chưa có một phong trào có tính chất bước ngoặt như cỡ Ngũ tứ vận động 1919). Tiếp sau giai đoạn chiến tranh nặng nề, đến giai đoạn hiện nay,  chúng ta chỉ lo đuổi kịp thế giới bằng mọi giá, nhiều vấn đề chiến lược không được đặt ra, đúng hơn chỉ đặt ra chiếu lệ.  

Thiếu sót đến ngay từ quan niệm  

1/ Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám, một trong những thành viên của mặt trận Việt Minh là Hội văn hóa cứu quốc. Tới 1948, còn có Đại hội văn hóa toàn quốc. Nhưng sau đó, Hội văn hóa bị giải thể thay vào đấy là những hội văn nghệ, hội sử, các hội khoa học kỹ thuật … Từng hội hoạt động rời rẽ riêng biệt. Con người nhà văn hóa trong các trí thức bị đẩy lùi xuống, thay vào đấy là vai trò người chiến sĩ.
     Thay cho văn hóa chỉ thấy nhấn mạnh tư tưởng (là phương diện mà người Việt vốn yếu nhất và hầu như là đi vay mượn từ nước ngoài )
     Văn hóa là tất cả cái phần làm nên giá trị của một dân tộc. Nghĩa của văn hóa rất rộng. Văn hóa là cái cách sống cách quan hệ với thiên nhiên, cách làm ăn sinh sống ( văn hóa nông nghiệp, văn hóa cư trú …); là các hoạt động tinh thần ( văn hóa tôn giáo, văn hóa dạy dỗ giáo dục con người ). Lại có văn hóa quyền lực, văn hóa hành chính, văn hóa quan hệ đối ngoại. Có văn hóa ý thức ; có văn hóa thể chế ; có văn hóa vật chất. Văn hóa bao trùm lên cả kinh tế chính trị pháp luật … Nhưng một cách hiểu như thế hiện không thông dụng.

      Trong thực tế, cách hiểu về văn hóa ở ta hiện triển khai theo hai hướng :
      Một là đẩy nó lên thành một cái gì trừu tượng, và mọi người kính nhi viễn chi, bằng lòng với những ý niệm chung chung.
     Hai là thu hẹp văn hóa trong các hoạt động tâm linh, chủ yếu là phần sáng tác thơ văn và một ít thành tựu nghệ thuật như sân khấu âm nhạc, các phong tục, các lễ hội. Thực tế là nhiều khi văn hóa bị hạ xuống một thứ “ cờ đèn kèn trống”, nặng về vai trò tô điểm cho một đời sống nặng nề và không thấy triển vọng thay đổi.

      Có thể nói do chúng ta không hiểu văn hóa, mà việc nghiên cứu văn hóa đân tộc bị hạn chế và nhiều mặt để ngỏ .

2/ Trong khi được hình dung một cách trừu tượng chung chung , đồng thời văn hóa được quan niệm như một cái gì nhất thành bất biến. Lịch sử phát triển của nó không được chú trọng, không cần tìm hiểu. Quá trình văn hóa Việt Nam trở thành một cái gì đơn điệu, trở đi trở lại, tẻ nhạt.
      Con người ở ta bị tách rời ra thành một cái gì chơi vơi không chằng không rễ, không thấy mình có những mối liên hệ với thời gian và không gian (theo nghĩa rộng của những từ này) . Trong khi luôn miệng nói phải nhớ tới quá khứ, thì chúng ta lại thiêng liêng hóa nó một cách vụng về, làm cho nó –quá khứ– mất đi ý nghĩ lẽ ra phải có.

     Lịch sử dân tộc rút lại chỉ là lịch sử chính trị, quân sự — lịch sử cứu nước giành lại đất nước – mà không phải lịch sử dựng nước , tức là lịch sử hình thành cá nhân và tổ chức xã hội, lịch sử văn hóa.
   Văn hóa dân tộc rút lại  với nhiều người  chỉ còn là cái gì mơ hồ, việc nghiên cứu quy về những lời ca tụng chung chung, sáo rỗng, không thuyết phục được ai. Đây cũng là một biểu hiện khác của việc không hiểu thế nào là văn hóa, không thấy sự chi phối của nó với đời sống .

3/ Một căn bệnh nặng nề khác của hoạt động nghiên cứu văn hóa vài chục năm gần đây, khiến nó dừng lại ở trình độ thô sơ: tính vụ lợi.

    Tính vụ lợi có nghĩa là chỉ xem cái gì có lợi trước mắt thì làm, dù là về lâu dài nó có hại cũng mặc kệ. Nó là con đẻ của tình trạng khó khăn kéo dài , khiến cho người ta chỉ biết tới một tầm nhìn hạn hẹp. Chưa nghiên cứu đã khai thác. Việc vận dụng “ lấy xưa phục vụ hôm nay’’ được làm quá thô thiển.
    Đã có lúc chúng ta đã đặt chân tới cách hiểu đúng nhưng rồi lại từ bỏ. Chúng ta thường xuyên lấy điều mà ta mong muốn thay cho sự thực.
    Đây là một đoạn quan trọng trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam mà nhà mác – xít Trường Chinh trình bày tại Đại hội văn hóa toàn quốc 1948
    Ông cha ta, hàng chục thế kỷ, học tàu viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu ; pháp luật mô phỏng Tàu ;học triết học Tàu theo lễ giáo Tàu, về tín ngưỡng theo cả Tàu và Ấn ; khoa độc lập học không tiến ;nghệ thuật âm nhạc kém phát triển ; lối ăn mặc ở hủ lậu bảo thủ thiếu khoa học .
   Nói theo cách nói hiện nay, Trường Chinh đã nhấn rất rõ và rất chính xác  chất vay mượn phụ thuộc” second hand” của văn hóa ta.
     Nhưng những nhận định như thế, nay bị bỏ qua. Đoạn trích nói trên là dẫn theo văn bản Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam năm 1948 . Trong các lần xuất bản về sau, cái ý tưởng sáng suốt này bị làm nhẹ đi, lảng tránh, coi là ngẫu nhiên không quan trọng. Trong các tài liệu chính thức, kể cả trong các nhà trường, chỉ thấy nhấn mạnh điều ngược lại rằng “ nước ta có một nền văn hóa phát triển rực rỡ độc lập không kém gì bất cứ nước nào “ và công thức này được nói đi nói lại, không cho phép ai dám sai trệch; nó ràng buộc mà không mở đường cho sự suy nghĩ tiếp.
      Hoạt động nghiên cứu văn hóa lê lết trong một tình trạng trì trệ .

4/ Trong quá trình phát triển, quan hệ của Việt Nam với thế giới nói chung cụ thể là  quan hệ với khu vực có nhiều khía cạnh không bình thường. Khi nói về mình, chúng ta không đặt mình vào sự phát triển của thế giới. Sự hiểu biêt của chúng ta về các dân tộc khác suốt trường kỳ lịch sử quá đơn sơ và bị thành kiến nhiều đời chi phối .
  Mối quan hệ văn hóa nước ngoài vốn có một vai trò quan trọng sống còn với mọi quốc gia , nhưng ở ta do tình trạng chống ngoại xâm liên miên , nên vấn đề tiếp nhận bị gán cho  nhiều tội lỗi. Trong chiến tranh tình trạng này  có cái lý của nó. Song nó cứ thế kéo dài mãi. Cho đến trước hội nhập , xu thế chi phối  trên phạm vi vĩ mô là một xu thế tự cô lập và đến nay trong thực tế lúc nào cũng bảo nhau hòa nhập mà không hòa tan. Thực tế là vấn đề hội nhập văn hóa không được xử lý thích đáng.
    Trong thực tế, xảy ra tình trạng lưỡng phân . Một mặt, ta cứ học đòi bắt chước, tiếp nhận không thiếu thứ gì. Mặt khác, nhìn chung lại thì vẫn là làm ăn luộm thuộm không đâu vào đâu, cái hay không tiếp nhận  mà nhiều khi lại mang về cái dở.
    Điều này là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới  tới kết quả tai hại là hạn chế luôn việc hình thành nên một cái nhìn chính xác về dân tộc. Dân ta thường cho rằng người ngoài ta không hiểu ta, chỉ ta mới hiểu ta ( thậm chí có người cho rằng không phải người Việt thì không sao hiểu được người Việt văn hóa Việt )
     Việc thiếu một phương pháp luận đúng đắn, ở đây là thiếu điểm nhìn đúng, khiến cho nghiên cứu văn hóa không đạt tới trình độ khoa học cần thiết.

5/ Khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, đã có cuộc thảo luận về Quốc học, nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu. Lý do là vì tự ta cũng thấy văn hóa của chúng ta yếu nhất là phần học thuật .
    Từ hồi đặt vấn đề hội nhập, nhân tố văn hóa có được nói tới nhiều. Song nó chỉ được quan niệm như một cái gì khiến chúng ta khác người. Vì mục đích thiển cận nào đó ( chẳng hạn để kêu gọi du lịch ), tính độc đáo bị tô vẽ quá đáng.
   Khi nghiên cứu văn hóa mang nặng tính cách vụ lợi, nó đã phát triển theo những phương hướng cổ lỗ và sai lệch như vậy.
    Nhiều người nước ngoài cũng biết điều đó. Tại Hội thảo quốc tế về Việt nam học lần II (2004), Oscar Salemink, bộ môn Nhân học Xã hội, ĐH Tự do Amsterdam (Hà Lan) cũng phải kêu lên đại ý : Nhiều người Việt Nam luôn luôn nói văn hoá Việt Nam khác với văn hoá các nước khác. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ, so sánh với văn hoá các nước khác thì có rất nhiều biểu hiện giống nhau. Trước những nhận xét như thế thông thường là ta lảng tránh.
     Sự hạn chế trong tiếp cận và so sánh, đã không giúp ta hiểu ta tốt hơn.

Những khó khăn đã đến  với người nghiên cứu
văn hóa Việt Nam ở trong nước hiện nay

    Theo chúng tôi, khó khăn lớn nhất của việc nghiên cứu về VN hôm nay là chúng ta xuất phát  từ một quan niệm thiển cận về văn hóa như trên vừa trình bày. Những lý luận  mới mẻ và đầy sức thuyết phục về văn hóa , từ lâu đã hình thành ở các nước phương Tây, nay được giới thiệu kỹ càng rộng rãi ở Nga và Trung Hoa lục địa, thì ở xứ ta vẫn còn xa lạ.
      Với  sự thiển cận kéo quá dài, các khó khăn càng chồng chất.
     Một đặc điểm cũa xã hội VN là cái gì cũng có, nhưng cái gì cũng không đạt chuẩn mực. Chúng ta không có thành thị tuy qúa trình đô thị hóa đang diễn ra ồ ạt, bừa bãi. Chúng ta không có các trường đại học theo đúng chuẩn mực quốc tế — và không biết bao giờ có nổi, trong khi đại học đang được mở ra đại trà.
    Hoạt động nghiên cứu văn hóa cũng vậy.
    Trong khi văn hóa Việt Nam rất được đề cao, thì các thiết chế nghiên cứu lại chưa hình thành .
     Về mặt phương pháp, văn hóa dân tộc chưa được nghiên cứu như một thực thể thống nhất mà bị chia nhỏ cắt khúc ra thành nhiều mảng rời rạc .
      Nếu biết rằng đây cũng là tình trạng thấy ở khoa học xã hội Nga thời xô viết và ở Trung Hoa đại lục từ 1976 trở về trước, thì người ta có thể yên tâm rằng tình hình không thể khác được.
      Chính những người phương Tây – xin được nói thẳng như vậy — lại đi đầu trong việc nghiên cứu VN như một toàn bộ. Thuật ngữ Việt Nam học được du nhập từ nước ngoài vào. Cho tới những năm tám nươi của thế kỷ XX, thuật ngữ này vẫn không được công nhận.
      Gần đây tình hình thay đổi, giới khoa học xã hội trong nước muốn làm nhưng lại không có người biết nghiên cứu. “Các nhà Việt Nam học “ nội địa thường chỉ được hiểu là các nhà nghiên cứu từng ngành riêng rẽ được gộp lại theo phép cộng đơn giản.
       Đã có các cuộc Hội thảo quốc tế về VN học (1998 và 2004 11-2008) , nhưng từ đây, lại thấy nổi bật lên một hiện trạng đáng xấu hổ:
       Trong hoạt động nghiên cứu cụ thể, các nhà khoa học nước ngoài làm tốt hơn người trong nước. Sự hơn này là ở mọi mặt. Họ cần cù. Họ có công cụ tốt. Nhiều người Nhật người Mỹ nghiên cứu Việt Nam đọc được cả các văn bản bằng chữ Hán cổ (là điều càng ngày càng ít nhà nghiên cứu VN làm nổi) .
      Họ làm công tác nghiên cứu với tinh thần khoa học thực sự chứ không biến đây thành công tác tư tưởng. Họ không bị ràng buộc bởi những cấm kỵ.
       Trong lúc chúng ta quen nói về tình trạng thống nhất thì họ nói về những vùng văn hóa khác nhau tồn tại lặng lẽ trong lịch sử . Trong lúc chúng ta chỉ thích nhấn mạnh sự độc lập với Trung Hoa cổ thì họ vạch rõ chúng ta đã học đòi và dễ dãi với mọi sự bắt chước xoàng xĩnh. Với một thứ chữ nôm mà chúng ta tự hào, có nhà khoa học Nhật đã gọi là một thứ bánh vẽ, việc sử dụng có nhiều bất tiện.
       Điều đáng tiếc là những công trình nghiên cứu này không được giới thiệu đầy đủ vào Việt Nam. Trong những trường hợp may mắn đươc giới thiệu thì theo lối cắt xén và tìm mọi cách hạn chế tầm tác dụng. Thường chúng bị giam lại trong những cuốn sách in với số lượng hạn chế mà không có được khả năng thâm nhập mạnh mẽ vào xã hội để thúc đẩy một sự đồng cảm và đi tiếp .

Một việc có thể làm ngay  

        Đời sống tinh thần của xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp mà người ta chỉ có thể hiểu được và gỡ rối được nếu trở lại với cả quá khứ của dân tộc. Nói như B. Russel “ Đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại “ ( sử học nói ở đây hàm nghĩa là việc nghiên cứu văn hóa nói chung).
        Gần đây đã có bạn trẻ thắc mắc vì sao sinh viên nước ngoài đến VN thì được học những khóa trình về văn hóa VN, mà sinh viên VN thì không.
       Nhưng chúng ta vẫn chưa sẵn sàng cho việc này. Tự nhận thức chưa trở thành một nhu cầu của xã hội. Người biết nghiên cứu và có khả năng nghiên cứu không có. Trình độ của ngành khoa học xã hội trong nước quá thấp và không dễ gì thay đổi.
       Thậm chí không ai dám tin là sắp tới có một cơ chế nghiên cứu thích hợp tương xứng phần nào với đòi hỏi của tình hình.
       Đã có lúc chúng tôi đi tới ý nghĩ là phải “ quốc tế hóa “ công việc tức là dựa chủ yếu vào thành tựu của giới nghiên cứu nước ngoài. Song lại cũng biết ngay là điều này đi ngược với thói quen suy nghĩ của người đương thời và chắc chắn là chưa thể làm được trong thời gian tới.
        Trước mắt chỉ xin có một đề nghị cụ thể, là cần lập ra những trung tâm thông tin tư liệu về Việt Nam học( tối thiểu là một, càng có nhiều càng tốt). Các trung tâm này có nhiệm vụ thu thập tất cả những gì người trong nước và nước ngoài đã viết về con người và xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Có một phần là nguồn từ sách báo người Việt viết ở Sài Gòn trước 1975 và các trí thức đang sống ở hải ngoại. Phần khác bao gồm từ thư tịch cổ của người Trung Hoa, sổ tay nhật ký của các nhà buôn các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam các thế kỷ trước, sách báo viết về Đông dương của người Pháp ( kể cả các viên chức hành chính cấp cao, những “ thực dân cáo già “ như chúng ta vẫn nói ) cho tới các công trình nghiên cứu đang hàng ngày hàng giờ xuất hiện trong các trường đại học ở Mỹ và Nhật, Úc và Hà Lan. Thu thập các tài liệu đã có cập nhật hóa nó bằng cách đưa lên mạng … việc này đòi hỏi nhiều công phu, nhưng vẫn là dễ làm nhất và nên được xem là cú hích mở đầu cho một quá trình tự nhận thức mà nếu không tiến tới một cao trào thì xã hội Việt Nam không bao giờ tạo ra được một bước ngoặt trong sự phát triển . 

5/08 chỉnh sửa,bổ sung 12/09
 V T N

19/06/2009

Trên đường tìm tới một cái nhìn hợp lý với Văn học sex

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 04:34

Từ thực tế các tác phẩm đang được tìm đọc
Thật khó hình dung văn học thế giới đương đại lại thiếu đi mảng sách bàn về miêu tả sex , đề cao sex , rồi bàn về sex. Lẽ tự nhiên làn sóng đó tràn đến ta .
Nói riêng trong phạm vi văn học Trung quốc . Điên cuồng như Vệ Tuệ, Những người đàn bà tắm là hai cuốn tiểu thuyết Trung quốc mà khi đọc biên tập tôi e dè । Cả hai đều dựng nên hình ảnh của một thanh niên trẻ đầy khao khát tìm hiểu cuộc đời và trong nhiều trường hợp xem việc làm chủ thân xác là một cách để chứng tỏ sự tự do của mình để khẳng định mình । Tuy nhiên , tôi thấy nên giới thiệu với đông đảo bạn đọc , bởi tin rằng khó lòng gọi đây là sách khiêu dâm , lý do chính có lẽ là bởi hiện lên sau các trang sách là các nhân vật có cuộc sống tinh thần có thể nói là phiền phức rắc rối , băn khoăn đi tìm đường băn khoăn đi tìm lẽ sống , chứ không phải là những cá nhân bạc nhược thèm khát hưởng thụ , và tự bênh che cho cái hành động vốn tự mình cũng biết là đồi bại .

Từ Thiết Ngưng , Vệ Tuệ đọc rộng ra đến Chương Hiền Lượng , Mạc Ngôn, Cửu Đan , Lâm Bạch tôi nhận ra một điều , đi vào sex không còn là nhu cầu riêng của ai nữa . Mà hình như có những lúc quá quẫn bách , con người ta không có cách nào khác , bấy giờ chỉ có nó để an ủi để tìm lại nghị lực sống . Và như vậy hoàn toàn có lý do chính đáng để biện minh cho các nhân vật đã được miêu tả cũng như các tác phẩm vừa sâu sắc vừa ăn khách nói trên .

Không may cho tôi là đến giờ phút này bản thân không tìm thấy cái cảm giác tốt đẹp và cái lý do vững chắc nói trên khi đọc một số trang sách có nhiều liên quan tới tính dục của các tác giả trong nước nhất là mấy bạn trẻ . Về nguyên tắc , tôi biết nay là lúc chúng ta không còn xa lạ với cách sống sách nghĩ của thế giới hiện đại . Lớp trẻ hiện nay cũng đang có nhiều bức xúc . Họ không bằng lòng sống theo nếp cũ . Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của con người , họ muốn thể nghiệm . Những khoái lạc muôn màu muôn vẻ của con người , họ muốn hưởng thụ và giúp nhau hưởng thụ . Phi thiêng liêng hóa , thế tục hóa là cả một xu thế mạnh mẽ của con người hiện đại và càng trong những xã hội vốn có quá nhiều cấm kỵ (tabu ) , xu thế đó càng bồng bột mạnh mẽ . Song có lẽ là vì chúng ta được chuẩn bị quá sơ sài , hành trình làm người của chúng ta còn quá ngắn ngủi , sự phát triển mọi mặt từ thể lực đến trí tuệ của chúng ta còn quá mỏng manh , nên những nỗ lực nóng vội của chúng ta dẫn đến tình trạng lê lết trong tuyệt vọng thậm chí có phần gần với bệnh hoạn . Nói đơn giản là đọc nhiều trang sách nói tới sex tôi thấy nó không phảI là nhu cầu chân chính của người viết mà nhiều khi như là học đòi , thấy người ta làm được nhiều người đọc thì cũng làm theo. Hoặc trong một số trường hợp , thoáng bắt gặp ở người viết một cái gì như là thèm thuồng , viết ra để mơn trớn vuôt ve chiều chuộng mình , đáp ứng những nhu cầu bản năng có phần thấp của mình mà không nối nó được với những nhu cầu cao đẹp nhất thiết phải có .

Đến một số quan niệmcần thống nhất
Những người có sống ở Hà Nội hẳn biết là vào khoảng những năm 60 của thế kỷ trước , chẳng những Số đỏ, Làm đĩ, Lục sì của Vũ Trọng Phụng bị liệt vào loại sách cấm mà thơ Hồ Xuân Hương cũng được coi là không nên phổ biến rộng vì có thể tác động xấu đến tâm lý thanh thiếu niên .
Lùi về xa nữa, ở ông cha xưa thói quen kiêng kỵ cũng rất sâu nặng . Một nhà nghiên cứu gần đây hé mở cho tôi biết : một tác phẩm lớn như Kim Bình Mai khi vào Việt Nam đã bị tước bỏ đi khá nhiều đoạn tả chuyện làm tình cụ thể . Còn nói chi đến loại như Nhục bồ đoàn , đến Tham hoan báo
Nhận được một ít sách Tàu theo con đường của mấy nhà buôn vặt hoặc mấy ông quan đi sứ chuyển về , các cụ cũng mê như điếu đổ , nhưng là xem giấu xem giếm , còn trước mặt con cháu , vẫn tuyên bố đại khái đây là một thứ ta – bu , không được phổ biến .

Có thể nói những thành kiến đó đến ngày nay vẫn còn ám ảnh đầu óc nhiều người . Thành thử cũng dễ hiểu là những tìm tòi của các bạn trẻ dễ bị xem là kỳ dị quá đáng và thường xuyên có những lời nhắc nhở theo lối vơ đũa cả nắm .
Theo tôi vấn đề sex không chỉ là vấn đề riêng của văn học mà lẽ ra phải là sự quan tâm của nhiều ngành khác như xã hội học tâm lý học văn hóa học . Vừa tìm hiểu nhu cầu phát triển của xã hội , vừa đối chiếu nó với những quan niệm đúng đắn cởi mở của thế giới hiện đại , chắc chắn chúng ta sẽ đề ra được phương án giải quyết cho một vấn đề lớn của thanh thiếu niên hiện nay .
Riêng trong phạm vi văn học ,có mấy điều tôi học được trong các tài liệu nghiên cứu về văn học sex .
Thứ nhất yếu tố tính dục sẵn có trong các tác phẩm cổ đại , thơ trữ tình trung thế kỷ sáng tác của các nhà văn phục hưng từ Mười ngày của Bocaccio , Chuyện kể Canterbury của Chaucer , hồi ký của Casanova … Đến thế kỷ XIX, danh sách này được bổ sung hàng loạt cái tên trứ danh Balzac, Maupassant, Zola …. Lại cũng đừng nghĩ là trong chuyện này , chỉ phương Tây năm độc quyền . Sách Trung quốc , sách ấn độ đã từng gây nghiện cho bao thế hệ ông Tây bà đầm .
Thứ hai , sở dĩ như vậy , vì đó là một nhu cầu lành mạnh của con người . Qua sex người ta làm giàu thêm bản năng sống của mình . Qua trường kỳ lịch sử , một bộ phận đặc sắc của văn hóa thế giới đã hình thành mà thiếu đi thì quan niệm của chúng ta về con người sẽ thiếu hụt .
Và thứ ba là sự phân biệt giữa sách tính dục và sách khiêu dâm vốn rất khó , ở nước nào cũng có tình trạng nhân sách tính dục được đòi hỏi nhiều thì loại sách ba xu về đề tài này cũng phát triển và chẳng bao giờ cạn kiệt , hết lớp này lại có lớp khác nổi lên rồi lại suy tàn . Đã có không ít những vụ kiện tụng cấm đoán . Tuy nhiên cái chính là sau những ồn ào giả tạo thậm chí sau những lầm lẫn , cuối cùng những tác phẩm có giá trị vẫn được khẳng định , nhờ đó sự cảm thụ của con người về chính mình ngày càng phong phú hơn .
Tôi tin rằng đây cũng là quy luật phát triển của văn học sex ở ta .


13/06/2009

Trở lại với khu vực đầu nguồn của văn học Việt nam hiện đại

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 15:24


Pháp du hành trình nhật ký (Nhật ký đi Pháp) của Phạm Quỳnh vừa được in lại sau mấy chục năm ngủ yên trong tạp chí Nam Phong suốt từ 1922 tới nay. Nhân dịp này, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn- người thực hiện việc biên soạn và chú giải – có dịp trao đổi với TT&VH về giá trị của tập sách cũng như về việc khai thác bộ phận văn học viết bằng quốc ngữ đầu thế kỷ 20.

* Vì sao ông lại đề xuất việc in lại và bắt tay và chú giải một cuốn nhật ký đã ra đời từ hơn tám mươi năm trước?

– Trên con đường tìm hiểu về giao lưu văn hóa giữa người Việt và người nước ngoài, mấy năm nay, tự nhiên bọn tôi bảo nhau phải chú ý tới “đầu ra”, tức là hiện tượng người Việt qua khỏi biên giới nước mình để đối mặt với thế giới rộng lớn. Thể tài cần tập trung chú ý trước tiên là thể ký, bao gồm du ký, bút ký, nhật ký. Năm 2002, cuốn Đi Tàu đi Tây đã được biên soạn. Pháp du hành trình nhật ký tiếp tục cái mạch đó.

* So với những cuốn đã in, nhật ký của Phạm Quỳnh có gì mới?

– Xuất hiện sớm hơn, thứ nhất; dày dặn hơn, thứ hai; và thứ ba; bên trong nó là một nội dung văn hóa: tác phẩm cho thấy một phần đời sống tinh thần của người Việt đương thời.

* Liệu có vì yêu mến tác phẩm mà ông nói quá lên so với mức độ nó vốn có?

– Năm 1932, Phan Khôi từng có một bài viết in trên Phụ nữ tân văn, nói về thể nhật ký trong văn học, sự phát triển rất sớm của nhật ký ở Trung Hoa, Nhật Bản cũng như các nước phương Tây và sự hiếm hoi của nhật ký ở nước ta. Kết luận bài viết, Phan Khôi cho rằng nhật ký là cái thước để đo trình độ văn minh của một dân tộc. Tôi cho rằng nói “một trong những cái thước” có lẽ phải hơn. Qua nhật ký, người ta có thể thấy mức độ trưởng thành của các nhân cách trong một giai đoạn của lịch sử xã hội.

* Ông có thể cho đông đảo độc giả hiểu rõ hơn về nội dung cuốn sách của Phạm Quỳnh?

– Năm 1922, tác giả có dịp đi Pháp. Trải qua hàng tháng lênh đênh trên biển, ông đến Marseille tham gia triển lãm, tiếp đó có ba tháng ở Paris, và ngoài những chuyến tham quan, còn có nhiều buổi tiếp xúc với một số trí thức, cũng như những buổi thuyết trình về văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam…Qua Pháp du hành trình nhật ký, người ta nhận ra hình ảnh một người Việt Nam trước khi đi xa đã có những hiểu biết chắc chắn về xứ sở mình sẽ tới, nên có thể đi vào đó một cách đàng hoàng, nhất là con người ấy có lòng tự trọng, muốn giúp những người nước ngoài kia hiểu thêm về đất nước mình và nếu như đối tác có gì chưa hiểu thì kiên nhẫn thuyết phục…

* Cuốn sách có vai trò thế nào đối với sự nghiệp tác giả?

– Phạm Quỳnh thường chỉ được biết tới như một ngòi bút biên khảo. Luận giải văn học và triết học, cái tên của cuốn sách tập hợp các bài viết của ông được in ra gần đây, đã nói lên điều đó. Nhưng ông còn là một nhà văn. Theo Thanh Lãng, tác giả Bảng lược đồ của văn học Việt Nam hiện đại, “người ta có thể từ chối giá trị nghệ thuật của các bài biên khảo của Phạm Quỳnh chứ ai mà có thể từ chối giá trị nghệ thuật của các bài tùy bút của ông (…) có đọc các tập hồi ký mới thấy Phạm Quỳnh không phải là xa chúng ta lắm, xa dân tộc, xa quê hương đất nước như người ta tưởng” (trích theo tạp chí Văn Học, in ở Sài Gòn, tháng 4/1963). Pháp du hành trình nhật ký là một minh chứng cho điều Thanh Lãng viết

* Ông đã bắt tay vào việc chú giải cuốn sách như thế nào?

– Lâu nay, sách tái bản thường chỉ cố in ra như nguyên văn đã có, trong khi đó, theo tôi, sau những biến thiên của hoàn cảnh, người đọc có nhiều điểm khó tiếp thụ, nhất là phần ngôn ngữ, nên nhất thiết các nhà chuyên môn phải phân công nhau vào cuộc. Công việc quá khó, tôi tự thấy chưa làm được bao nhiêu, chẳng qua đọc đến chữ nào thấy không hiểu thì giở từ điển tra lại và ghi ra để đỡ công cho bạn đọc. Tuy nhiên, cũng nhờ vào việc chú giải này mà tôi có dịp học hỏi thêm về tiếng Việt.

* Ông kỳ vọng gì ở cuốn sách?

– Chung quanh ý niệm di sản văn học, nhiều người chỉ đơn thuần nghĩ tới phần văn chương Hán Nôm từ thế kỷ 10 tới thế kỷ 19, trong khi đó theo tôi, phần văn chương quốc ngữ đầu thế kỷ 20 cũng là một bộ phận có ý nghĩa tích cực, bởi nó có nhiều liên hệ trực tiếp tới sự phát triển của văn chương hôm nay. Trước khi có được Thơ mới hay Tiểu thuyết tiền chiến – vốn là những giá trị chín đẹp bậc nhất trong lịch sử văn học dân tộc – văn học đã trải qua một giai đoạn mò mẫm tìm đường, nhưng chính bởi vậy, nó lại có sức hấp dẫn riêng . Chúng tôi muốn, một lần nữa, đánh động dư luận theo hướng đó.

* Liệu các ông còn cho làm những cuốn tương tự?

– Chúng ta đều biết nay là lúc giới xuất bản đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Bên cạnh việc làm sách dịch theo đúng những chuẩn mực cần có, nên tính chuyện quay trở lại “thâm canh” vào văn học trong nước, kể cả khu vực đầu nguồn của văn học Việt Nam hiện đại mà bấy lâu bị “bỏ hoang”. Có thể mới làm sẽ gặp nhiều khó khăn, không chỉ bạn đọc nhìn loại sách này đã ngại mà ngay cả giới biên khảo và nghiên cứu văn học cũng đánh bài lảng bởi việc quá xương xẩu, nói chung cầu dễ đã là một nếp quen trong cách sống của nhiều người chúng ta. Song nếu tận mắt nhìn thấy nhiều cuốn sách in ra từ tám mươi năm, chín mươi năm trước- những chứng tích của lịch sử dân tộc trên con đường hiện đại hóa, nay do không được bảo quản một cách khoa học, đã gần đến lúc tàn lụi, chúng ta mới thấy xót xa, và chỉ có thể nhủ thầm là phải bảo nhau mỗi người một tay, cứu lấy kho di sản đó càng nhanh càng tốt.

Ngô Phan (thực hiên)
báo Thể thao và Văn hóa ra ngày 18/1/2005

Phần viết thêm cho bản in trên Talawas

Khi cuốn sách này đã được in ra ở Hà Nội thì người chú giải có tìm thêm được một tài liệu do Thanh Lãng viết trên Tạp chí Văn Học ra ở Sài Gòn số tháng 4/1963, có liên quan đến Pháp du hành trình nhật ký. Mặc dù đã chủ bụng không đi vào tìm hiểu và đánh giá tác phẩm, mà chỉ chú giải, song được một đoạn văn quý, chúng tôi xin được phá lệ mà chép ra sau đây để bạn đọc cùng biết:

“ Người ta có thể từ chối giá trị nghệ thuật của các bài biên khảo của ông chứ ai mà có thể từ chối giá trị nghệ thuật của các bài tùy bút trong đó Phạm Quỳnh đã để chan chứa những tình cảm say sưa. Phương chi các thiên hồi ký của ông như Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Ba tháng ở Paris (tức bản tóm tắt của Pháp du hành trình nhật ký – VTN chú), thì ta phải nhận là những tập hồi ký giá trị, giá tị vì những nhận xét tỉ mỉ, những nét tả linh động, nhất là ở tình cảm say sưa của một nghệ sĩ chảy tràn lan trên giấy. Phạm Quỳnh, là một nhà thơ viết văn xuôi. Có đọc các tập hồi ký ấy ta mới thấy Phạm Quỳnh không phải là xa chúng ta lắm, xa dân tộc, xa quê hương đất nước như chúng ta tưởng…”

tham khảo:PHAM QUỲNH
đọc thêm:Pham Ton’s Blog


30/04/2009

Văn học miền nam 54-75 trong cách nhìn của VƯƠNG TRÍ NHÀN hôm nay

Filed under: NGHIEN CUU VAN HOC — vương-trí-đăng @ 12:47

Trong những năm gần đây, chúng tôi cố gắng đưa vấn đề Văn học miền Nam trở lại văn đàn, bởi có một nhu cầu đến từ những người thực sự yêu văn chương ở trong nước muốn tìm hiểu về những tác giả và tác phẩm đã bị chính thức loại trừ sau 30/4/1975.
Trong chiều hướng đó, hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị, tiếng nói của nhà phê bình và nghiên cứu Vương Trí Nhàn, một trong những nhà văn mền Bắc đã không ngừng tiếp cận với văn học miền Nam từ thời kỳ phân chia Nam Bắc đến ngày nay.
Qua những nhận định và phân tích của Vương Trí Nhàn, chúng ta sẽ thấy sự tiếp cận văn học giữa hai miền chưa bao giờ thực sự gián đoạn, và riêng ông, ông mong được đóng góp tích cực vào việc mở rộng con đường hợp nhất hai nền văn học Nam Bắc để có thể vẽ nên toàn diện bộ mặt văn học Việt Nam trong thế kỷ XX.

Thụy Khuê: Thưa anh Vương Trí Nhàn, xin cảm ơn anh lại một lần nữa vui lòng đóng góp tiếng nói trên đài RFI. Trước hết xin hỏi anh là hiện nay có dấu hiệu nào cho chúng ta thấy là văn học miền Nam đã bắt đầu hiện diện lại trên địa bàn văn học ở trong nước hay chưa?
Vương Trí Nhàn: Lâu nay, Văn học miền Nam như cứ tồn tại một cách lấp lửng ở Hà Nội, lúc thì xuất hiện, lúc có vấn đề nổi lên, tuy không thành vấn đề lớn, vấn đề liên tục. Thời gian gần đây vì có chuyện một số sách của Dương Nghiễm Mậu được in lại, sau đó lại bị phê phán, thành ra có người nghĩ rằng nó đang bị đẩy lùi đi. Tôi thấy không phải, mà thực chất khoảng mùa thu năm ngoái, năm 2007, báo Văn Nghệ mở ra mục giới thiệu một số tác phẩm của văn học Sàigòn trước 75 và đã in một số truyện ngắn. Và đúng kỳ 30 tháng tư năm 2008 này, báo Văn Nghệ có ra số đặc biệt, lần đầu tiên đưa vào sưu tập mười truyện ngắn in ở Sàigòn trước năm 75, đấy là một điều đáng chú ý. Theo tôi, trong xã hội đang có nhu cầu muốn nhìn lại, tiếp cận lại bộ phận văn học này, tôi thấy đây là điều cần thiết và cũng muốn góp sức vào đó.

T.K.: Truớc khi đi xa hơn nữa, xin hỏi anh về tình hình trước năm 1975, ở Hà Nội thời ấy đã có ai đọc một vài tác phẩm của Văn học miền Nam hay không, và nếu có, chuyện đó đã xẩy ra như thế nào?
V.T.N.: Văn học miền Nam hồi đó về Hà Nội ít ỏi lắm ,muốn đọc khó lắm , nhiều khi phải mò mẫm đi tìm tìm thấy rồi, đọc thấy hay rồi muốn kêu lên với mọi người cũng phải tự nén lại . Song, một cách tự nhiên , một số người chúng tôi biết rằng có nó , đinh ninh tin rằng một người muốn làm văn học một cách đứng đắn phải tìm tới nó — các nhà văn từ Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, rồi Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… hay lớp trẻ bọn tôi như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt , Trúc Thông hay một số bạn khác đã nghĩ như vậy. Không bồng bột không sôi nổi ào ạt , nhưng chúng tôi đã liên tục tìm kiếm , không bỏ qua một trường hợp nào mà không tìm kiếm . Có thể là chẳng ai hiểu văn học miền Nam cho đến đầu đến đũa , có thể sự hiểu chỉ loanh quanh ở những mảnh vụn, nhưng làm sao khác được , vừa đọc vừa đoán thêm tưởng tượng thêm cũng là quý lắm rồi . Và đã có một sự chia sẻ thậm chí như là giữa hai bên hình như vẫn có một cuộc đối thoại ngầm nữa . Vả chăng cái sự xa lạ là mãi về sau này mớí xuất hiện chứ ban đầu chính thức đâu có phải vậy. Có lần tôi đã tìm thấy một văn bản năm 56, ông Nguyễn Tuân, thay mặt cho giới văn nghệ Hà Nội, đã viết thư cho những người viết văn ở miền Nam, nói rằng chúng ta sẽ cùng lập một đoàn đại biểu để đi dự hội nghị nhà văn ở Tân Đề Ly, bên Ấn Độ và chúng ta sẽ chờ cơ hội sáng tác để góp phần vào nền văn hóa dân tộc. Đây là chuyện ít người biết cả người ở Hà Nội cũng không biết tôi cho rằng chúng ta nên tìm cách nhắc lại với nhau kẻo hiểu làm mãi , hiểu lầm và tự mình bó buộc mình một cách phi lý.
Về sau này , từ những năm cuối chiến tranh và nhất là ngay sau 1975 đôi lúc có cảm tưởng là với giới viết văn Hà Nội đời sống văn chương miền nam là bỏ đi những người viết văn ở Sàigòn trước kia toàn là kẻ thù cả. Không phải thế. Nói người ta cứ nói mà đọc người ta cứ đọc . Gần đây càng ngày tôi càng thấy nhiều ý kiến nói rằng đánh giá thế nào thì đánh giá, có thể phê phán, có thể nhận xét thế này thế kia, nhưng phải công nhận rằng văn học miền Nam là một bộ phận của văn học Việt Nam thế kỷ XX và ở đó có rất nhiều vấn đề, nhiều đóng góp và phải có nó nữa thì văn học Việt Nam mới là chính mình. Vậy phải nghiên cứu tìm hiểu hẹ thống hóa lại phải in lại Trên nguyên tắc không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ còn làm thế nào cho đúng, cho tốt nhất, sự thực là không thể không làm được. Tôi cho là thời gian tới, việc này phải được triển khai một cách bài bản , tuy rằng đi vào cụ thể cũng có rất nhiều khó khăn.

T.K.: Thưa anh, qua những dịp nói chuyện với anh, tôi biết là anh đã đọc khá nhiều văn học miền Nam từ lâu rồi .Nhưng hình như trước đây anh ngại phát biểu về vấn đề này. Ngày nay, anh sẵn sàng trở lại vấn đề này một cách công khai . Vì sao như vậy, chắc ở đây phải có một lý do sâu xa?
V.T.N.: Đúng là thời gian gần đây, tôi cảm thấy không thể im lặng mãi mà cần nói nên nói . Sở dĩ vậy lý do rất đơn giản . Cái chính là đời sống trong nước gần đây có nhiều khó khăn, quá, không phải chỉ là vấn đề kinh tế mà còn nhiều mặt khác.Với tư cách là một trí thức, một người viết văn, điều làm tôi đau lòng nhất là nhìn thấy con người hiện nay, có cái gì đó như là suy thoái, tha hóa, tầm thường đi, trở nên hung hãn càn rỡ hơn, chỉ biết chiều theo những bản năng thấp, ham hưởng thụ và mệt mỏi, chán ngán, làm bậy. Tôi thấy chúng tôi những người viết văn có lỗI trong chuyện này và trước mắt phải nhận lấy trách nhiệm suy nghĩ và lý giải vấn đề này. Trong quá trình lý giải đó, tôi đi tới ý tưởng là con người hôm nay là hệ quả của chiến tranh . Nghĩ gì thì nghĩ, xã hội Việt Nam hôm nay là xã hội hậu chiến. Có người bảo đã 30 năm nay rồi; nhưng theo tôi, thực sự xã hội Việt Nam vẫn còn đang phát triển theo quy luật của chiến tranh và nếu chúng ta không nói rõ ra những đặc điểm của con người hậu chiến, không trở lại cuộc chiến tranh, thì không thể hiểu được đời sống trước mắt và không thể gọi ra căn bệnh của con người hiện nay được và cũng không thể góp phần chạy chữa và giúp con người sống tốt hơn được. Tôi tìm thấy ngay, những điều mà tôi suy nghĩ, ở Văn học miền Nam, cái phần mà tôi đã biết, đã đọc từ trước. Nó đã giúp tôi hiểu cả hai miền trong chiến tranh . Nó lại là cái sơ sở để cắt nghĩa tình hình hôm nay. Chúng ta đều biết rằng: trước 75, Văn học Việt Nam tồn tại ở hai mảng là Văn học miền Bắc và Văn học miền Nam. Nhưng có lúc trong tài liệu nghiên cứu, người ta chỉ thấy có Văn học miền Bắc thôi, còn bộ phận kia coi như không có. Hiện nay các sách văn học sử, hoặc là không viết gì, hoặc viết mấy câu qua loa có tính chất phê phán, nhưng sự thực là trong thời gian 45-75, rõ ràng chúng ta có hai nền văn học cùng tồn tại và hai nền văn học đó bổ sung cho nhau, mỗi bên có giá trị riêng và giá trị đó không thể bỏ được.

T.K.: Anh nghĩ như thế nhưng vẫn còn nhiều người nghĩ ngược lại anh, tại sao vậy?Và anh có lập luận nào để bảo vệ ý kiến anh?
V.T.N.: Sở dĩ đôi lúc người ta khó công nhận Văn học miền Nam là hình như họ nghĩ như thế này: tức là nếu công nhận Văn học miền Nam thì [Văn học] miền Bắc coi như là thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là hỏng, là vứt đi. Tôi nghĩ “cách nghĩ chỉ có một [nền văn học] thôi” là không phải, vì như vậy sẽ gây ra nhiều rắc rối trong việc tiếp cận nhau. Tôi cho rằng chúng ta có cả hai [nền văn học], và hai bên bổ sung cho nhau. Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, muốn hiểu con người sống như thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh, còn nếu nói có những trang sách nào diễn tả được con người trong chiến tranh thì tôi thấy nó rõ trong phần văn học miền Nam. Qua những cuốn sách tôi đã đọc, từ Võ Phiến Mai Thảo Nhật Tiến Thế Uyên… chỗ nào tôi cũng thấy chiến tranh xa gần đều có dây dưa tớI chiến tranh . Sát sườn hơn những tác phẩm của Y Uyên , Nhã Ca, của Phan Nhật Nam, hay những bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn . Một ngườI như Dương Nghiễm Mậu, ngoài Cũng đành , Nhan sắc , Con sâu , tôi nhớ còn khá nhiều bút ký in trên bán nguyệt san Văn khoảng 1072-74 , ở đó có một nhân vật có tên là Trực , nhân vật Trực trở đi trở lạI nhiều lần vì hình như là chỗ để tác giả tự bộc lộ . Đọc những trang sách này , tôi hình dung ra được là chúng ta đã trải qua một cuộc chiến tranh ghê gớm như thế nào, con người Việt Nam đã bị thương như thế nào méo mó như thế nào , trở thành như thế nào qua cuộc chiến tranh đó. Tôi cho rằng, nếu trong truyền thống, chúng ta có mảng văn học chức năng, động viên thôi thúc con người hành động, ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo hay thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, thì Văn học miền Bắc nối truyền thống đó rất rõ. Ngược lại, Văn học miền Nam nối tiếp truyền thống văn học của Nguyễn Du, của Đặng trần côn – Đoàn Thị Điểm, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, mảng nói về những đau khổ của con người và sự bơ vơ, khó khăn, bất lực, không biết đi lối nào trong đời sống này và cả tính bi thương, đau đớn của con người. Mảng đó tôi thấy rõ ở Văn học miền Nam đầy đủ hơn.

T.K.: Nếu đặt Văn học miền Nam vào mạch chung của thế kỷ XX, anh thấy nền văn học này đã giữ địa vị nào và đã làm được gì cho nền văn học dân tộc của chúng ta, nói chung?
V.T.N.: Chúng ta biết rằng thế kỷ XX là một bước chuyển của Văn học Việt Nam, trước đó chúng ta có nền văn học theo mô hình Trung Hoa, ở đó có hai bộ phận chính, một gần với dân gian, một nữa là văn học chức năng, văn dĩ tải đạo. Sang thế kỷ XX, văn học chúng ta hiện đại hóa tức là vận động theo mô hình văn hóa phương Tây, đến năm 1945 đã hoàn chỉnh. Sau năm 45, chúng ta có hai mảng văn học như tôi nói ở trên tức là Văn học miền Bắc và Văn học miền Nam. Văn học miền Bắc đi theo luật riêng , một mặt, nó tiếp theo văn học tiền chiến, và một mặt – mà là mặt chủ yếu — thì muốn làm công việc khai phá mới , đi lại từ đầu, tức là đi từ văn học dân gian lên và phủ nhận những kinh nghiệm của thời tiền chiến. Đặt trong cái mạch chung thì đến đây bên cạnh phần nối tiếp, có sự đứt gẫy . Ngược lại, chính Văn học miền Nam, rõ nhất là thời kỳ 54-75, theo tôi là sự tiếp nối tiền chiến đầy đủ hơn, với những vấn đề mà các nền văn học Đông Nam Á thường thấy là sử dụng quan niệm văn hóa phương Tây, nói lên được đời sống con người đương thời, có sự nối tiếp những di sản cũ, có sự tiếp nhận một cách bình thường đối với ảnh hưởng nước ngoài. Nhìn đạI thể , nếu Văn học miền Nam trước sau vẫn nằm trong một mạch liên tục với nước ngoài , thì Văn học miền Bắc, trước 75, gần như cô lập, chỉ có mạch nối tiếp với Trung Hoa và Nga, nhưng chỉ tiếp nhận được cái phần bề ngoài , vả chăng, ngay cả Nga và Trung Hoa lúc đó cũng đứng cô lập với thế giới. Vì vậy, có thể nói: Văn học miền Nam là sự tiếp nối bình thường của văn học tiền chiến, — tức là thuận theo cái dòng trôi chảy bình thường của lịch sử , chỉ có khác là trong điều kiện xã hội hậu thực dân, khi người Việt Nam bắt đầu nắm được vận mệnh mình và nghĩ phải làm sao đưa nền văn học của mình vào xây dựng xã hộI mớI , tuy nhiên tất cả là còn nham nhở dở dang và sớm buông xuôi mệt mỏi .

T.K.: Nếu cần tìm về bản chất Văn học miền Nam, theo anh, những giá trị nào là cơ bản của nền văn học này?
V.T.N.: Ở đây có hai giá trị cơ bản của văn học, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tôi hiểu giá trị hiện thực như thế này, đọc Văn học miền Nam trước 75, tôi hiểu con người Việt Nam trong chiến tranh, chúng ta thấy ở thành thị, quân đội nước ngoài tập trung đến, với bao nhiêu đảo lộn của con người; còn nông thôn thì nay thuộc phe này, mai phe kia, con người bị chiến tranh xua đẩy đi khắp mọi nơi, đấy là những bức tranh hiện thực. Có lần tôi đọc một cuốn sách ít người biết lắm, cuốn Bướm khuya của Túy Hồng, hay là cuốn Đoàn lữ binh mùa thu của Nhã Ca chẳng hạn, nhưng cuốn như thế cho thấy đời sống xã hội – nhất là qua các nhà văn nữ- khi Mỹ vào, được tổ chức như thế nào để chuẩn bị chiến tranh và đã gây bao nhiêu thay đổi trong đời sống con người. Cái hiện thực diễn tả ở đây không phải là cái hiện thực mà chúng ta quen nghĩ, tức là ở đó phải có giai cấp nọ, giai cấp kia, phải có địa chủ, tư bản, nông dân – quan niệm hiện thực đó nó cổ rồi, nó khô cứng- mà là không khí hiện thực chung, hiện thực ngột ngạt, đau đớn, có lúc như ma quái, người ta không thể nắm được, nó nằm ngoài người ta, người ta đành phải chấp nhận nó và cảm thấy ở trong một môi trường mà mình bị nung nóng lên, bị lệch mọi hành động và suy nghĩ của mình. Thì bức tranh về xã hội chiến tranh như thế, tôi thấy rất nhiều trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam, ở phần tốt nhất của họ, ở phần họ đúng là nhà văn, thì họ đã nói lên được thực trạng xã hội, ở đấy, đọc thấy rõ hơn, và có cảm tưởng như trở lại không khí của một đất nước, đã trải qua ba mươi năm quá đặc biệt. Đặc biệt trong đó có một chủ đề mà tôi cho là chủ đề nhân đạo, tức là nền văn học có sự thông cảm với con người, chia sẻ với con người. Có một số người hay hiểu nền văn học nhân đạo là văn học thương yêu con người, ca ngợi con người, đấy cũng là một cách hiểu. Nhưng theo tôi, điều quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa nhân đạo là hiểu con người, thông cảm với con người, thấy tất cả những sự phức tạp, cái ghê gớm, cái kỳ lạ của con người, nhất là chia sẻ với con người trong trạng thái nhân thế của nó.

T.K.: Xin anh kể ra một vài tác giả hay tác phẩm nào trong nền Văn học miền Nam đã làm cho anh căn cứ vào đó để nói lên những điều anh vừa nói.
V.T.N.: Tôi nhớ là trong những cuốn sách của nhà văn Dương Nghiễm Mậu thì tôi thấy rất rõ những lúc, trong thời kỳ đầu, Dương Nghiễm Mậu có nhiều suy nghĩ rất trừu tượng, trong Cũng đành, về vấn đề tồn tại như thế nào, mình có quyền hành động gì, sự lựa chọn đúng hay sai, mình đúng như thế nào, bản mệnh đã bị dày vò thế nào, đấy là phần đến rất sớm ở Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền và một số người khác. Về sau, khoảng sau 72, tôi được biết là Dương Nghiễm Mậu cũng có những tiểu thuyết như Con sâu, cũng đã diễn tả tâm trạng đời sống con người trước 75. Rất tiếc là tôi chưa được đọc cuốn này nhưng tôi được đọc nhiều bút ký ngắn của Dương Nghiễm Mậu tả những chuyến đi theo các đơn vị quân đội đến Tây Nguyên, ra Quảng Trị và nhân vật các sĩ quan trẻ trong đó, tôi thấy diễn tả được hết những đau đớn của con người, chứng kiến đất nước mình, lớp trẻ bị chết, bị thương, mất hết sự thiêng liêng của đời sống và bơ vơ không biết làm thế nào.
Một tác giả nữa, mà khoảng năm 72, bọn tôi ở quân đội cũng rất xúc động, xôn xao lên là cuốn của Phan Nhật Nam, không phải cuốn nhiều người hay nói tới là cuốn Mùa hè đỏ lửa, diễn tả không khí chiến trường rất ác liệt, mà là cuốn trước đó, cuốn Dấu binh lửa. Theo tôi, Dấu binh lửa có giá trị rất lớn, vì nó cho thấy sự tan vỡ tâm hồn, tan vỡ đời sống tinh thần của người thanh niên lớn lên trong một đất nước chiến tranh. Từ chỗ là một người đầy nhiệt huyết, muốn biết, muốn hiểu, muốn đóng góp, muốn làm cái gì cho dân, cho xứ sở, biến thành người hư hỏng, chán ngán, không còn là mình nữa và biết là mình lội sâu vào trụy lạc, hư hỏng và con người trở nên trâng tráo, chai lỳ, bất nhẫn, Phan Nhật Nam kêu lên là mình không còn là mình nữa, mình đã đánh mất mình rồi, xã hội đã làm hỏng mình rồi. Tất cả những điều đó đều đọc được trong Dấu binh lửa. Tôi nhớ là tôi hay nói chuyện với những nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, các anh đều công nhận rằng đọc cuốn sách này thấy rất rõ sự vận động tâm lý, vận động đời sống tinh thần của con người trong xã hội như thế và bọn tôi ghi nhận ngay cách diễn tả, cách viết rất trực tiếp và khả năng sử dụng tiếng Việt của Phan Nhật Nam trong Dấu binh lửa ở một tác phẩm có tính chất tự thú như thế. Sau này Bảo Ninh có viết Nỗi buồn chiến tranh, đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi lại nhớ đến Dấu binh lửa và tôi có đưa cho anh Bảo Ninh xem, Bảo Ninh nói với tôi: Nếu tôi đọc cuốn Dấu binh lửa này thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Tôi có cảm tưởng rằng đây là một trong những cuốn sách viết về chiến tranh mà bọn tôi ghi nhớ mãi và cho rằng ở chỗ đó, nó thể hiện đầy đủ những đóng góp của Văn học miền Nam, tức là ghi nhận được trạng thái nhân thế, tinh thần của con người một thời, tất cả những đau đớn, vật vã của con người trong một hoàn cảnh phi nhân văn và chính từ đó chúng ta có thể giải thích tất cả những biến động trong đời sống từ sau 75 đến nay.

T.K.: Thưa anh, có thể nói là sự trở về với Văn học miền Nam của anh còn có một lý do khác, đó là từ khi về hưu anh có nhiều thì giờ đọc hơn và anh cũng đã khám phá ra nhiều cái mới.
V.T.N.: Tôi cũng xin thú thật là, gần đây, về hưu rồi, tôi mới có điều kiện đọc nhiều, một trong những say mê của tôi là đọc sử của mình suốt những thời kỳ cũ. Thật ra ở Hà Nội người ta viết sử rất kém, từ lúc tôi đi học đã… không có sử. Rất xấu hổ phải nói là một người viết văn, trí thức như bọn tôi, mà chưa bao giờ tiếp xúc một cách nghiêm túc với những bộ sử rất quan trọng của chúng ta như bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Cương Giám Khâm Mục hay những bộ sử sau này như Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn chẳng hạn hay sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, thời người Pháp sang tổ chức lại xã hội của mình. Tất cả những trang sử ấy, bọn tôi biết quá ít, sự thực là chúng tôi có những định kiến sai lầm, những thành kiến, rồi cứ nuôi những thành kiến đó mà cứ tưởng đó là chân lý. Tôi có được may mắn là tự tìm ra được niềm vui đọc lại những cái đó và từ mảng ấy, tôi hiểu được đời sống hôm nay. Thế thì Văn học miền Nam cũng là một bộ phận, một di sản của dân tộc, nó như những bức ảnh, những cuốn phim, ghi lại đời sống một thời. Với những nhà văn của một đất nước, với tư cách là trí thức của đất nước, tôi nghĩ chúng ta rất cần lùi xa lại quá khứ và từ khoảng cách xa như thế, nhìn chung cả lịch sử tinh thần của dân tộc, chúng ta sẽ có được những khái quát để đóng góp xây dựng đời sống trước mắt.

T.K.: Tôi biết là anh đang có một dự định nghiên cứu dài hơi, anh có thể cho biết sơ qua về công việc mà anh đang bắt đầu làm không?
V.T.N.: Tôi đang làm việc tổng kết lại hoạt động của đời mình, theo nghĩa là dù mình có mấy chục năm làm việc nhưng nó cũng như là một bản nháp lộn xộn, bây giờ tìm xem cái gì là chính, vì thế, tôi nhận viết cuốn sách về văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trên con đường ấy, tôi nghĩ là chúng ta phải đánh giá lại Văn học tiền chiến, để thấy nó như là biểu hiện dạng thức văn hóa dân tộc trong nửa đầu thế kỷ XX, sang nửa sau, phải kể cả mảng Văn học miền Bắc (Văn học cách mạng) và Văn học miền nam. Trong quá trình xử lý như thế, tôi biết rằng sự chuẩn bị còn quá ít và chưa đầy đủ và bọn tôi còn có những thiếu sót rất cơ bản, thí dụ khả năng có thể tiếp xúc được với những ngành nghiên cứu mới nhất của phương Tây, thì lại không có, chỉ mầy mò thôi. Và có lẽ việc làm đầu tiên là mình phải thay đổi quan niệm, phải cởi mở, cởi mở theo nghĩa không phải để cho qua mà chính là để xác thực với thực tế hơn, gần với sự thực, gần chân lý hơn. Tôi mong muốn cả những người viết văn ở Hà Nội, ở Sàigòn cũ và bây giờ một số ở nước ngoài, tôi nghĩ rằng chúng ta cũng đã có một thời gian nào đấy để nghĩ lại và vượt qua thành kiến cũ của mình, tạo được sự mới mẻ với đời sống văn hóa, văn học của dân tộc trong thế kỷ XX. Tức là chúng ta phải chấp nhận điều chúng ta phải thay đổi.

T.K.: Vừa rồi anh nhấn mạnh đến việc chúng ta phải thay đổi, theo anh, cái mà chúng ta phải thay đổi ở đây cụ thể là gì? Và tại sao chúng ta lại phải thay đổi? Bài học quá khứ đã cho ta những kinh nghiệm như thế nào?
V.T.N.: Đối tượng vẫn thế thôi, nhưng sự tiếp cận của chúng ta hôm qua đã thất bại thì hôm nay phải đổi cách nhìn, phải có những công cụ mới, cái nhìn mới. Trong thực tế đời sống nghiên cứu văn học, văn hóa ở Hà Nội cũng đã có như thế: trong một thời gian dài ở Hà Nội Văn học tiền chiến coi như rất yếu kém, nhiều hư hỏng. Những tác giả như Vũ Trọng Phụng coi như không được in lại, Nguyễn Công Hoan cũng có những sai lầm, Ngô Tất Tố cũng hạn chế, Tự Lực Văn đoàn coi như vứt đi hết, chỉ có Thạch Lam được yêu mến một chút thôi, chứ còn tất cả đến bây giờ vẫn coi lãng mạn là xa rời đời sống, nhiệm vụ dân tộc. Từ lúc trước 75 hiểu như thế, đến bây giờ thì khác hẳn, bây giờ lại bắt đầu nhìn Văn học tiền chiến như một niềm tự hào của văn hóa, văn học dân tộc, thì tôi thấy rõ ràng chúng ta đã thay đổi, tôi muốn rằng sự thay đổi ấy cũng sẽ đến với Văn học miền Nam, trong cái nhìn Văn học miền Nam trước 75. Tôi thấy, ví dụ như người Nga, họ cũng nhìn thấy ở văn học hải ngoại của họ, người Trung Hoa cũng tìm thấy ở Văn học Đài Loan, Văn học Hồng Kông những giá trị. Ở Đài Loan có những nhà văn như Bạch Kiến Chúc mà các sách văn học sử của Bắc Kinh coi là quan trọng của nền Văn học Trung Hoa thế kỷ XX. Những quan niệm của mình phải thay đổi. Người ta lại bảo có những hạn chế. Tôi thấy ai mà chẳng có hạn chế, ví dụ bây giờ đọc bất cứ cuốn sách nào ở Hà Nội, đều thấy nói rằng Nguyễn Du có nhiều tư tưởng hạn chế, nhưng không phải vì hạn chế ấy mà tất cả chúng ta bỏ, không say mê Kiều và cảm thấy Kiều là phần thân thiết, gần gũi và là một tiếng nói tâm hồn của chúng ta. Tôi thấy trong việc trở lại Văn học miền Nam, vẫn còn nhiều thành kiến cũ, vẫn có những ngần ngại, cố chấp làm chúng ta khó thay đổi. Tôi thấy cần phải có sự giải phóng tư tưởng, và phải có những tiêu chuẩn rất cơ bản, thí dụ như tiêu chuẩn vì quyền lợi chung của dân tộc, vì tính chất nhân đạo, tính chất nhân văn của con người. Những tiêu chuẩn ấy mới là những sâu xa của văn học và trên những cơ sở như thế tôi tin rằng việc này sẽ được tiếp tục tốt hơn.

T.K.: Nếu so sánh sinh hoạt văn học hiện nay ở trong nước với sinh hoạt văn học miền Nam trước 75, anh có thấy điểm tương đồng nào giữa hai nên văn học này?
V.T.N.: Gần đây tôi thấy rõ ràng là văn học ở trong nước hiện nay đang có nhiều điểm giống như Văn học miền Nam trước 75, kể cả sự phát triển văn hóa đại chúng, kể cả sự học đòi nhiều lúc hơi xô bồ, tuỳ tiện đối với phương Tây, cái mệt mỏi của con người, nỗi băn khoăn của người trí thức để có một nền văn học khác đi, so với sức cuốn của xã hội hiện đại. Nhiều lúc ở Hà Nội này, tôi đọc và tôi cảm thấy những hiện tượng quanh mình tôi đã gặp một lần đâu đó, và tôi nhớ lại là trước năm 75 tôi đã đọc ở Sàigòn, bên cạnh Bách Khoa, bên cạnh Văn, đã có những nhốn nháo, nhố nhăng, tùy tiện rất buồn cười mà ngay lúc bấy giờ nhiều người đã kêu rồi. Ngay ở phương diện ấy, Văn học miền Nam cũng đã làm bước hội nhập đi trước so với văn học trong nước bây giờ mà các nhà văn trẻ hiện nay đang muốn thay đổi, họ cũng không muốn viết, không muốm sáng tác như những người đi trước, như bọn tôi, nữa; thế nhưng sự chuẩn bị không có. Sự chuẩn bị này, dĩ nhiên lỗi không phải ở lớp trẻ mà là ở lớp người đi trước, chúng tôi đã không góp phần chuẩn bị cho họ, thành ra, ngay ở phương diện này, các nhà văn trẻ cũng có thể tìm thấy trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam, những ví dụ, những bài học, để học theo, những bài học hữu ích cho công việc của họ.

T.K.: Chắc anh cũng đồng ý với tôi là mặc dù giới trẻ trong nước hiện nay không có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với Văn học miền Nam, nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ, tìm tòi kỹ thì chúng ta vẫn thấy có một vài ảnh hưởng nào đó của Văn học miền Nam trên một số tác giả trẻ hiện nay. Vậy anh có thể lý giải cụ thể thế nào về hiện tượng này?
V.T.N.: Cụ thể thế này. Chúng ta đều biết rằng Văn học miền Nam vẫn có cách xuyên thấm vào đời sống. Ví dụ như thơ, các hội thơ gần đây đã bắt đầu đưa Thanh Tâm Tuyền lên thành một tìm tòi của thơ thế kỷ XX ở Việt Nam và trong dư luận miệng tức là trong các cuộc trao đổi, mọi người trông vào các tìm tòi của các nhà thơ ở miền Nam trước 75 như những bước khai phá tiếp tục Thơ Mới, để tìm tới một giai đoạn mới của thơ và để thơ Việt Nam hội nhập thế giới. Tôi cho là thơ của các nhà thơ ở miền Nam trước 75, trong chừng nào đó, nó đã giải quyết việc này, một cách liên tục, một cách đại trà rộng rãi, và đã đạt được mức thành công. Nó sẽ góp phần thúc đẩy văn học trong nước. Tôi thấy tình trạng trong nước bây giờ rất trì trệ và có cái gì như là bế tắc, người ta muốn tìm nhưng không biết tìm gì và cái tìm ra thì thiếu điều kiện cơ bản cho nên không phải là cái mà người ta cần. Tôi thấy ngay đến cả các vấn đề như thế nào là tiểu thuyết? văn xuôi là như thế nào? chấp nhận phương Tây như thế nào? thì các nhà văn trẻ bây giờ cũng có thể đọc lại các nhà văn miền Nam trước 75. Thế rồi cách thể hiện cá nhân như thế nào? quan hệ cá nhân, xã hội thế nào? họ cũng có thể tìm thấy trong các nhà văn miền Nam cách thể nghiệm của mình. Giới nghiên cứu chúng tôi cũng thấy điều đó, chính chị Thụy Khuê đã có lần viết trong bài Văn học miền Nam, về việc xây dựng Văn học miền Nam ở Sàigòn trước năm 75, có những nhóm người trẻ lúc bấy giờ đầy những ao ước xây dựng nền văn nghệ mới, qua giai đoạn tiền chiến rồi, qua giai đoạn Pháp cai trị rồi, một nền văn nghệ của nước mình. Việc mà nền Văn nghệ miền Nam làm được: thứ nhất là tiếp nhận di sản cũ, nối tiếp truyền thống các nhà văn cũ và thứ hai là tiếp nhận một cách bình thường văn học, văn hóa nước ngoài, coi đó là nguồn góp ý cho mình, coi đó là cách mình có thể tựa vào để phát triển.

T.K.: Xin hỏi anh về di sản văn học. Theo anh thì Văn học miền Nam có vai trò gì trong việc bảo tồn Văn học tiền chiến và trên mặt nghiên cứu văn học, theo anh, miền Nam có để lại thành quả nào mà anh thấy vẫn còn hữu ích cho giới làm văn học hiện nay không?
V.T.N.: Trong việc di sản Văn học tiền chiến, thì trong một thời gian dài, ở Hà Nội mất đi rất nhiều, nhiều tài liệu bị cất vào thư viện, sau đó không ai đọc, cuối cùng không biết ở đâu. Thì chính là ở Sàigòn, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn đã bắt đầu có sự nối tiếp, chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, đã góp phần làm dài di sản chung của chúng ta. Gần đây, như tôi biết, Từ điển văn học đã đưa vào một cuốn sách văn học sử mà riêng bản thân tôi rất thích thú và đã mua về để coi như là cuốn sách rất tốt về văn học sử Việt Nam, đó là cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ. Những người có theo dõi văn học Sàigòn, đều biết hồi ấy có nhiều người rất nổi trên phương diện nghiên cứu văn học và biên khảo, ông Phạm Thế Ngũ chỉ là một nhà giáo và cuốn sách mà tôi nói chỉ là một cuốn giáo trình; nhưng thực sự gần đây, tất cả mọi người đều công nhận đó là một cuốn sách viết rất nghiêm túc về Văn học Việt Nam nói chung, bằng chứng là cuốn sách đó đã được đưa vào Từ điển văn học, do nhóm của Viện Văn Học chủ trì. Tất cả những thành tựu của Văn học miền Nam, như cuốn sách về triết học của Trần Thái Đỉnh, cuốn Triết học hiện sinh cũng đã được in lại. Hôm qua tình cờ tôi đọc lại cuốn Văn học miền Nam Tổng quan của Võ Phiến, thì ông Võ Phiến cho biết cuốn đó có thời gian là cuốn bán chạy nhất, năm nó ra đời ở Sàigòn. Điều đó tôi rất thông cảm bởi vì hiện nay ở Hà Nội cũng thế thôi: có một khao khát tiếp nhận những cái mới của phương Tây, tiếp cận những tinh hoa của họ, tôi thấy việc đó thì Văn học miền Nam đã đi trước và để lại những thành quả mà bây giờ chúng tôi không dễ gì vượt qua.

T.K.: Thưa anh, nếu đưa được nền Văn học miền Nam trở lại văn đàn thì anh thấy điểm nào có thể giúp ích ngay cho sinh hoạt văn học hiện nay trong nước?
V.T.N.: Nhìn chung, tất cả những phần đóng góp của Văn học miền Nam đối với nền văn học dân tộc, hứa hẹn nhiều bài học quý báu cho việc xây dựng nền văn nghệ của chúng ta. Thí dụ việc xây dựng ngôn ngữ văn học. Hiện nay trong đời sống Hà Nội, ngôn ngữ giao tiếp thông thường… rất kinh khủng. Hôm nọ có người viết bài về việc giữ chủ quyền trong ngôn ngữ, ý nói đang có cuộc xâm lăng ngôn ngữ từ tiếng Anh, đến tiếng Hán xâm nhập vào tiếng nói rất loạn xạ, và ngay cả ngôn ngữ văn học của những người cầm bút hiện nay cũng hết sức lộn xộn, hết sức nhếch nhác, lâu lắm không có người viết văn hay. Trong lúc đó, tôi đọc lại Văn học miền Nam, với những ngòi bút bậc thầy, ở phần hay nhất của mình, thì Mai Thảo có những trang viết hết sức văn học, rất hay, Võ Phiến có giọng văn riêng, cho thấy một đời sống tinh thần không thể có ở thời tiền chiến được. Rồi rất nhiều nhà văn khác, như Dương Nghiễm Mậu, Phan Nhật Nam, v.v… cả những nhà văn tương đối phổ thông hơn như Thụy Vũ, Nhã Ca, Trùng Dương, Túy Hồng v.v… ở họ, đều là những thể nghiệm ngôn ngữ mà đi sâu hơn thì ở đó nó có cái mạnh của tiếng nói Hà Nội, có cả cái mạnh của văn hóa miền Nam, của Sàigòn lục tỉnh, tôi thấy hai điều đó được kết hợp nhuần nhụy trong những nhà văn, một số nhà văn di cư, mang lại cho ngôn ngữ văn học của Văn học miền Nam một mực thước và sau đó đạt cái chuẩn mà đến bây giờ bọn tôi vẫn trông vào đó để học hỏi. Hoặc trong việc dịch những tác phẩm văn học nước ngoài sang tiếng Việt, cách xử lý tiếng Việt của các dịch giả, tôi thấy đó là điều bọn tôi phải nể và phải tiếp nhận học hỏi và phải công nhận những đóng góp của họ. Tôi chỉ muốn nói là gần đây tôi đã có phản ứng như thế và rất muốn chia sẻ với mọi người như thế.

T.K.: Thưa anh, câu chuyện đã khá dài, trước khi từ giã, anh thấy có những điều gì anh muốn nói thêm về việc đưa Văn học miền Nam trở lại văn đàn, điều mà anh thật sự hết lòng mong muốn thúc đẩy.
V.T.N.: Tôi chỉ muốn nói một điều là hiện nay tôi bị ám ảnh bởi điểm là chúng ta đến chậm quá, làm muộn quá. Hiện nay nếu muốn quay trở lại Văn học miền Nam, ngoài khó khăn tôi nói trên về tư tưởng, cách làm việc, thì khó khăn vật chất rất cụ thể như tư liệu thì mất rất nhiều và không ai chuyên tâm. Lòng người thì vẫn tâm lý hậu chiến tức là vẫn bị ảnh hưởng ngày hôm qua, không tách ra được để nhìn đối tượng văn hóa, bình tĩnh làm công việc một cách tốt hơn. Gần đây trên mạng talawas cũng đã trích đăng lại một só tác phẩm cũ của Văn học miền Nam, ở bên Mỹ, nhiều tác phẩm cũ được in lại, nhưng tôi vẫn cảm thấy chưa đủ. Thỉnh thoảng trao đổi với một vài nhà nghiên cứu khác cũng thấy thế. Chúng tôi có cảm tưởng mỗi người nắm một tí, tức là mỗi người chỉ nắm được phần của mình thôi, còn sự thực những người nắm được bao quát chung thì không có và hiện nay tài liệu cũng rất thiếu sót. Cụ thể những bộ báo, sách quan trọng như tập Bách Khoa, Văn… thì không biết ở trong và ngoài nước người ta còn bao nhiêu và làm thế nào đưa nó lên thành tài liệu nghiên cứu cho tất cả mọi người. Làm được như thế thì cũng đòi hỏi một nỗ lực rất lớn, văn học mạng hiện nay rất phát triển nhưng không ai làm việc lưu trữ này, dự trữ tài liệu, để thúc đẩy việc nghiên cứu Văn học miền Nam. Trong quá trình nghiên cứu văn học, tôi rất muốn có dịp nào đó chúng ta cùng trở lại Văn học miền Nam, đọc lại nó để hiểu nó.

T.K.: Xin thành thật cám ơn anh Vương Trí Nhàn.
Bài “nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn” đăng trên HỢP LƯU số 103 tháng 1&2 năm 2009
Thụy Khuê thực hiện
Chương trình Văn học nghệ thuật RFI, ngày 14 và 21/6/2008

Tạo một blog miễn phí với WordPress.com.